Hoài Thanh
| birthplace = Nghi Lộc, Nghệ An | deathdate = | deathplace = Hà Nội | realname = Nguyễn Đức Nguyên | penname = Văn Thiên, Le Nhà Quê | occupation = Nhà thơ, Nhà văn, Viết báo, Dạy học | nationality = Việt Nam | ethnicity = Kinh | citizenship = Việt Nam | education = Thành chung | alma_mater = | period = 1936 - 1982 | genre = Trữ tình | subject = | movement = Thơ mới | awards = Giải thưởng Hồ Chí Minh | spouse = | partner = | children = | relatives = | influences = | influenced = | signature = | website = | footnotes = |tên khai sinh=Nguyễn Đức Nguyên|sinh=15 tháng 7 năm 1909|nơi sinh=xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, Nghệ An|mất=14 tháng 3 năm 1982 (73 tuổi)|nơi mất=Hà Nội}} Hoài Thanh (15 tháng 7 năm 1909 – 14 tháng 3 năm 1982) có tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên (ngoài ra ông còn sử dụng các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê), là một nhà phê bình văn học Việt Nam, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Tác phẩm ''Thi nhân Việt Nam'' do ông và em trai Hoài Chân viết đã đưa tác giả lên vị trí một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Sinh ngày 15 tháng 7 năm 1909 trong một gia đình nhà nho nghèo có tham gia phong trào Đông Du chống Pháp của Phan Bội Châu. Quê ông ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bắt đầu học chữ Hán, chữ Quốc ngữ, hồi nhỏ ông là học sinh của trường Quốc học Vinh; rồi theo học trường Pháp Việt đến bậc trung học; tham gia phong trào yêu nước của học sinh của Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Trước 1945, ông tham gia viết văn, làm báo, dạy học và được coi là người đứng đầu trường phái phê bình văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật. Năm 1927, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1930 đang học ở trường Bưởi (Hà Nội) thì bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ và giải về quê. Năm 1931 vào Huế, làm công cho một nhà in, đi dạy học, đồng thời viết văn, viết báo.Tham gia Tổng khởi nghĩa của Việt Minh lật đổ chính quyền ở Huế tháng 8 năm 1945. Sau 1945 ông lần lượt giữ những chức vụ: Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc, Huế (tháng 9 năm 1945); cán bộ giảng dạy tại Đại học Hà Nội (từ 1945 – 1946); công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam (từ 1947 đến 1948); ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam(1950); Trưởng tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương (1950 – 1956); Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội (1958). Trong khoảng 10 năm 1958 – 1968 ông trở thành đại biểu Quốc hội khóa 2, làm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; tham gia Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2. Từ 1959 – 1969 ông giữ chức Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện. Từ 1969 đến 1975 ông giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoài Thanh mất ngày 14 tháng 3 năm 1982 tại Hà Nội. Hưởng thọ 73 tuổi Được cung cấp bởi Wikipedia
1
2
3
4