Nguyễn Bỉnh Khiêm
| birth_place = làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) | death_date = | death_place = làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) | full_name = Nguyễn Văn Đạt | real_name = Nguyễn Văn Đạt | penname = Trình Quốc Công, Bạch Vân | occupation = Chính khách, nhà thơ, nhà sư phạm, nhà dự báo chiến lược, nhà hoạt động từ thiện | nationality = Việt Nam | ethnicity = Việt | citizenship = Việt Nam | phong tước = Trình Quốc Công | education = Trạng nguyên Đại Việt (1535) | alma_mater = | period = Văn học thời Mạc (Văn học trung đại Việt Nam) | genre = | subject = | movement = | notableworks = ''Bạch Vân am thi tập'' (thơ chữ Hán), ''Bạch Vân quốc ngữ thi tập'' (thơ chữ Nôm), ''Sấm Trạng Trình'' | awards = | spouse = 3 vợ | partner = | children = 12 con (7 con trai) | relatives = Nguyễn Văn Định (cha), Nhữ Thị Thục (mẹ), Nhữ Văn Lan (ông ngoại), Dương Đức Nhan (cha vợ) | influences = Lương Đắc Bằng, Nguyễn Trãi, Thiệu Ung (1011–1077) | influenced = Phùng Khắc Khoan, Giáp Hải, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến | signature = | website = }} Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là Văn Đạt (文達), tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân am cư sĩ (白雲庵居士), được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước "Trình Tuyền hầu" rồi thăng tới "Trình Quốc công" (程國公) mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Ngoại trừ quãng thời gian dưới 10 năm thời thơ ấu có thể xem là bình yên cuối triều Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống gần trọn thế kỷ 16, một thế kỷ nhiều biến chuyển mang tầm ảnh hưởng chưa từng có trước đó trong lịch sử dân tộc, mà ông vừa là nhân chứng vừa là nhân tố quan trọng tạo nên chúng. Là một người xuất thân từ tầng lớp trí thức quan lại nhưng cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao nhất của sự nghiệp, cũng như là một nhà nhân đạo chủ nghĩa ông luôn đề cao tư tưởng thân dân trong sách lược trị nước.Dưới thời quân chủ của Việt Nam, ông là một trong số hiếm "văn nhân thuần túy" (tức là những người không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận) và lại cũng không phải là công thần khai quốc lẫn người thân thích với hoàng tộc nhưng được phong tới tước Công ('Quận công' hay 'Quốc công') ngay từ lúc còn sống. Trình Quốc công là tước phong chính thức cao nhất của vua nhà Mạc ban cho Nguyễn Bỉnh Khiêm gần 20 năm trước khi ông mất. Sự thật lịch sử này căn cứ vào 3 tấm văn bia do chính ông soạn lúc đã cáo quan về quy ẩn tại quê nhà Trung Am ở độ tuổi ngoài 73 và hiện còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn tại 2 huyện Quỳnh Phụ và Thái Thụy của tỉnh Thái Bình. Việc phong tước hiệu Quốc công cho Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay từ lúc sinh thời đã chứng tỏ sự trân trọng rất lớn mà vua Mạc dành cho ông và có thể xem đây là một sự ghi nhận mang tính biểu tượng của nhà vua đối với những đóng góp của ông cho triều đại này. Cần nhớ rằng trong lịch sử Trung Quốc cũng như Việt Nam, hai tước hiệu hàng đầu như tước Công và Vương có quy chế rất khắt khe để vua ban phong cho những người không có quan hệ thân thích với hoàng tộc. Kiểu "văn nhân thuần túy" và lại không có quan hệ thân thích với hoàng tộc như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Trãi là khó hơn cả các trường hợp xét duyệt khác để được phong tới tước công (dù là Quốc công hay Quận công) ngay khi còn sống. Kiểu "văn nhân cầm quân" chẳng hạn như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Công Trứ hay Trương Đăng Quế thậm chí còn có nhiều cơ hội để lập quân công với triều đình hơn kiểu "văn nhân thuần túy" nên họ thường được phong tước hiệu cao hơn. Tuy nhiên đến nay, vẫn còn nhiều nhà nghiên cứu đồng tình với một nhận định sai sót là Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ được truy phong tước hiệu Quốc công sau khi ông đã qua đời. Đạo Cao Đài sau này cũng phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân.
Xét một cách toàn diện lịch sử Việt Nam thế kỷ 16, nhiều người đã gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm là "cây đại thụ văn hóa dân tộc", hay nói theo cách khác, ông đã được xem là đại diện tiêu biểu nhất của lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam trong thế kỷ nhiều biến động lớn này. Cùng với một nhân vật nổi danh khác của xứ Hải Đông là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của thời kỳ văn hóa Lê–Mạc mang tính bản lề trong lịch sử trung đại của Việt Nam. Một vài người trong thời kỳ này, điển hình như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được coi là những tác gia văn học thực sự lớn đầu tiên của Việt Nam. Cũng như về nhiều phương diện, họ có thể được xem là những tên tuổi 'tập đại thành' đầu tiên của nền thơ ca Việt Nam. Đó là những người mà tác phẩm của họ có sự dồi dào về số lượng, phong phú về thể tài và có ảnh hưởng quan trọng đến tiến trình phát triển của một nền văn học mang tính dân tộc. Một yếu tố quan trọng nữa ở các tác gia này là phần lớn tác phẩm của họ vẫn còn được lưu truyền qua nhiều biến động của lịch sử để hậu thế ngày nay có thể nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn diện về sự nghiệp văn chương của họ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đánh giá là người xứng đáng kế thừa và phát triển ngôn ngữ thi ca dân tộc kể từ sau thời Nguyễn Trãi, góp phần giúp nó đạt đến mức độ hoàn thiện cao dưới thời Nguyễn Du. Cần nhớ rằng việc sáng tác thơ văn bằng tiếng mẹ đẻ (tức tiếng Việt) sử dụng chữ Nôm của người Việt đã có những bước đi chập chững đáng ghi nhận ở thời kỳ Lý–Trần nhưng chỉ thực sự tạo ra những bước đột phá vững chắc đầu tiên trong thời đại Lê–Mạc mà điển hình là 3 tập thơ Nôm còn được lưu truyền đến ngày nay bao gồm ''Quốc âm thi tập'' của Nguyễn Trãi, ''Hồng Đức quốc âm thi tập'' của vua Lê Thánh Tông cùng các triều thần, và ''Bạch Vân quốc ngữ thi tập'' của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hai tập thơ của ông là ''Bạch Vân am thi tập'' (chữ Hán) và ''Bạch Vân quốc ngữ thi tập'' (chữ Nôm) được coi là thành tựu lớn của thơ văn trung đại Việt Nam, mở đầu cho một dòng thơ ca "chạm chân vào hiện thực", đã quan tâm mô tả xã hội dưới góc nhìn đời tư và đời thường, là một cống hiến lớn của văn học thời Mạc đối với tiến trình phát triển và hoàn thiện của thơ văn dân tộc. Xét về nhiều mặt, có thể xem ông là người đi khai phá có công khơi mở nhiều hướng phát triển mới cho thơ ca Việt Nam, trong đó có những dòng thơ mang đậm tính tuyên truyền đạo lý - suy tưởng triết lý - cảm hứng thế sự (tiệm cận với hiện thực đa diện của xã hội đương thời) sẽ có điều kiện phát triển mạnh ở các thế kỷ sau ông như lịch sử thơ văn Việt Nam đã ghi nhận.
Ông cũng được sử sách và người đời thừa nhận rộng rãi với tư cách là một nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, với tầm nhìn địa chính trị đi trước thời đại nhiều thế kỷ. Những lời cố vấn nổi tiếng của ông dành cho các tập đoàn quyền lực phong kiến Mạc, Lê-Trịnh, Nguyễn (nói theo lời của danh sĩ Nguyễn Thiếp là ''phiến ngữ toàn tam tính'') đã có ảnh hưởng to lớn, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình của lịch sử dân tộc và từ đó tác động lớn tới quan hệ địa chính trị của cả khu vực Đông Nam Á trở về sau. Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có khả năng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một tầm nhìn chiến lược thấu suốt về chủ quyền của đất nước trên biển Đông ngay từ thế kỷ 16. Ông cũng có thể là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam – với tư cách là quốc hiệu của dân tộc – một cách có ý thức nhất thông qua di sản thơ văn của ông còn lưu lại đến ngày nay. Do đó người đời sau coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông và gọi chung là ''Sấm Trạng Trình''. Không chỉ dân gian mà 2 bộ chính sử của nhà Nguyễn là ''Đại Nam nhất thống chí'' và ''Đại Nam thực lục tiền biên'' (đều do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) cũng xác nhận năng lực dự đoán - tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tác động của ông đến quyết định Nam tiến của Nguyễn Hoàng. Được cung cấp bởi Wikipedia
1
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 1997
Được phát hành 1997
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
2
Bỡi Nguyễn Văn Đạt
Được phát hành 1995
Được phát hành 1995
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
3
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2017
Được phát hành 2017
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
4
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2003
Được phát hành 2003
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
5
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2007
Được phát hành 2007
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
6
7
8
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2014
Được phát hành 2014
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
9
Bỡi Nguyễn, Văn Đát
Được phát hành 2007
Được phát hành 2007
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Thủ Dầu Một
Liên kết dữ liệu
10
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2013
Được phát hành 2013
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
11
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2011
Được phát hành 2011
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
12
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2012
Được phát hành 2012
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
13
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2018
Được phát hành 2018
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
14
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2016
Được phát hành 2016
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
15
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2017
Được phát hành 2017
Thư viện lưu trữ:
Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
16
17
18
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2011
Được phát hành 2011
Thư viện lưu trữ:
Thư viện Trường Đại học Đà Lạt
Liên kết dữ liệu
19
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2011
Được phát hành 2011
Thư viện lưu trữ:
Thư viện Trường Đại học Đà Lạt
Liên kết dữ liệu
20
Bỡi Nguyễn, Văn Đạt
Được phát hành 2011
Được phát hành 2011
Thư viện lưu trữ:
Thư viện Trường Đại học Đà Lạt
Liên kết dữ liệu