Ảnh hưởng của giống, mật độ và phân bón lá đến sự sinh trưởng, năng suất Xà lách xoong (Nasturtium officinale L.) tại thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long : Luận văn tốt nghiệp Cao học ngành: Khoa học cây trồng

Nghiên cứu được thực hiện tại xã Thuận An, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long từ tháng 06/2019 đến tháng 03/2020 nhằm xác định ảnh hưởng của giống, mật độ trồng và phân bón lá đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng Xà lách xoong. Nghiên...

Mô tả đầy đủ

Đã lưu trong:
Chi tiết về thư mục
Tác giả chính: Võ, Chí Hiền
Định dạng: Sách
Ngôn ngữ:Undetermined
Được phát hành: Cần Thơ Trường Đại học Cần Thơ 2020
Những chủ đề:
Các nhãn: Thêm thẻ
Không có thẻ, Là người đầu tiên thẻ bản ghi này!
Thư viện lưu trữ: Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ
LEADER 03567nam a2200217Ia 4500
001 CTU_239294
008 210402s9999 xx 000 0 und d
082 |a 635.56 
082 |b H305 
088 |a 8620110 
100 |a Võ, Chí Hiền 
245 0 |a Ảnh hưởng của giống, mật độ và phân bón lá đến sự sinh trưởng, năng suất Xà lách xoong (Nasturtium officinale L.) tại thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long : 
245 0 |b Luận văn tốt nghiệp Cao học ngành: Khoa học cây trồng 
245 0 |c Võ Chí Hiền ; Trần Thị Ba (cán bộ hướng dẫn) 
260 |a Cần Thơ 
260 |b Trường Đại học Cần Thơ 
260 |c 2020 
520 |a Nghiên cứu được thực hiện tại xã Thuận An, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long từ tháng 06/2019 đến tháng 03/2020 nhằm xác định ảnh hưởng của giống, mật độ trồng và phân bón lá đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng Xà lách xoong. Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm: Thí nghiệm 1 (vụ Thu Đông 2019) bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 2 nhân tố, 3 lần lặp lại. Nhân tố 1 là giống Xà lách xoong nhập nội (trồng từ hạt): (1) Rado 704, (2) Tân Nông Phát và (3) Trường Phúc. Nhân tố 2 là mật độ trồng: (1) 33 lỗ/m², (2) 25 lỗ/m² và (3) 20 lỗ/m². Kết quả cho thấy ba giống Xà lách xoong nhập nội đều tương đương nhau về năng suất thương phẩm (dao động 0,72-0,80 kg/m²), năng suất tổng, chất lượng (độ Brix, hàm lượng chất khô, hàm lượng vitamin C và màu sắc lá), sự sinh trưởng (chiều dài thân chính, đường kính gốc, số lá, số chồi) và tỷ lệ bệnh thán thư. Ba mật độ trồng đều không làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, thành phần năng suất, năng suất và chất lượng Xà lách xoong (thu hoạch 2 lần). Thí nghiệm 2 (vụ Đông Xuân 2019-2020) bố trí lô phụ, 3 lần lặp lại với lô chính là giống Xà lách xoong trồng từ hom (vì giống địa phương không có hạt): (1) Nhập nội và (2) Địa phương-đối chứng. Lô phụ là loại phân cung cấp qua lá: (1) Không cung cấp phân bón lá-đối chứng, (2) Phân kem, (3) Phân bón lá và (4) Phân kem + phân bón lá. Kết quả cho thấy giống nhập nội cho năng suất thương phẩm (3,20 kg/m²), năng suất tổng, sự sinh trưởng (chiều dài thân chính, số lá và số chồi đều thấp hơn giống địa phương (năng suất thương phẩm 4,80 kg/m2); giống nhập nội có khối lượng trung bình cây, đường kính thân, kích thước lá và tỷ lệ bệnh thán thư cao hơn giống địa phương. Chất lượng của giống nhập nội và địa phương tương đương nhau. 
650 |a Rau Salad,Salad vegetables 
910 |c Qhieu 
980 |a Trung tâm Học liệu Trường Đại học Cần Thơ