Xây dựng quy trình phân tích các đồng vị phóng xạ 223Ra và 224Ra trong mẫu nước biển sử dụng hệ đo trùng phùng chậm

Vùng biển ven bờ thường xuyên tiếp nhận nhiều dạng vật chất khác nhau đến từ đất liền, trong đó một số đi theo nước ngầm và số khác đi theo dòng chảy mặt. Các dạng vật chất này có nguồn gốc tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ hoạt động của con người. Các đánh giá gần đây cho thấy nước ngầm ngọt bổ cấp cho...

Mô tả đầy đủ

Đã lưu trong:
Chi tiết về thư mục
Tác giả chính: Võ, Thị Mộng Thắm
Tác giả khác: Phan, Sơn Hải
Định dạng: Luận văn
Ngôn ngữ:Vietnamese
Được phát hành: Trường Đại học Đà Lạt 2018
Những chủ đề:
Truy cập trực tuyến:https://scholar.dlu.edu.vn/thuvienso/handle/DLU123456789/61542
Các nhãn: Thêm thẻ
Không có thẻ, Là người đầu tiên thẻ bản ghi này!
Thư viện lưu trữ: Thư viện Trường Đại học Đà Lạt
Miêu tả
Tóm tắt:Vùng biển ven bờ thường xuyên tiếp nhận nhiều dạng vật chất khác nhau đến từ đất liền, trong đó một số đi theo nước ngầm và số khác đi theo dòng chảy mặt. Các dạng vật chất này có nguồn gốc tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ hoạt động của con người. Các đánh giá gần đây cho thấy nước ngầm ngọt bổ cấp cho đại dương chiếm tới 6% của tổng lượng nước toàn cầu. Nước ngầm bổ cấp cho biển thường có hàm lượng chất hòa tan khá cao. Vì thế, mặc dù với một hàm lượng rất nhỏ, nước ngầm có thể có các ảnh hưởng đáng kể đến môi trường biển gần bờ.Ví dụ như sự bùng nổ của tảo độc được cho là dinh dưỡng cung cấp bởi nước ngầm.Vùng biển ven bờ cũng là nơi tiếp nhận ngày càng nhiều các dạng chất thải công nghiệp khác nhau, trong đó một số đổ ra từ các con sông và một số khác được thải trực tiếp từ các nhà máy ven biển. Sự cố tại nhà máy Formosa gây ô nhiễm nặng nề vùng ven biển các tỉnh Miền trung là một ví dụ điển hình về tác động của công nghiệp đến môi trường biển. Hiện nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, môi trường biển đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu nhằm hạn chế tối đa tác động xấu, tạo sự phát triển bền vững cho các vùng kinh tế ven biển.