Phân tích chuỗi giá trị cà phê Arabica ở tỉnh Lâm Đồng - Analysis of Arabica coffee value chain in Lamdong province

Luận án phân tích chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Lâm Đồng được thực hiện dựa trên phương pháp tiếp cận phân tích chuỗi giá trị của GTZ (2007) và khung phân tích SCP mở rộng nhằm phân tích cấu trúc thị trường, thực hiện thị trường và kết quả thị trường của cà phê Arabica tại Lâm Đồng. Trên cơ sở đó...

Mô tả đầy đủ

Đã lưu trong:
Chi tiết về thư mục
Tác giả chính: Nguyễn, Thị Tươi
Định dạng: Doctoral thesis
Ngôn ngữ:Vietnamese
Được phát hành: Trường Đại học Cần Thơ 2023
Những chủ đề:
Truy cập trực tuyến:https://scholar.dlu.edu.vn/handle/123456789/2128
Các nhãn: Thêm thẻ
Không có thẻ, Là người đầu tiên thẻ bản ghi này!
Thư viện lưu trữ: Thư viện Trường Đại học Đà Lạt
Miêu tả
Tóm tắt:Luận án phân tích chuỗi giá trị cà phê Arabica tại Lâm Đồng được thực hiện dựa trên phương pháp tiếp cận phân tích chuỗi giá trị của GTZ (2007) và khung phân tích SCP mở rộng nhằm phân tích cấu trúc thị trường, thực hiện thị trường và kết quả thị trường của cà phê Arabica tại Lâm Đồng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như những thách thức của chuỗi. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cấp chuỗi nhằm nâng cao GTGT và thu nhập cho các tác nhân tham gia trong chuỗi, thông qua việc sử dụng công cụ phân tích ma trận SWOT. Số liệu thứ cấp được thu thập từ Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, UBND tỉnh Lâm Đồng, Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng, Niên giám thống kê của tỉnh Lâm Đồng và một số tỉnh thành khác cũng như từ các kết quả nghiên cứu có sẵn về chuỗi giá trị nông sản trong và ngoài nước. Số liệu sơ cấp được thu thập từ việc khảo sát 10 nhà cung cấp vật tư đầu vào, 200 nông hộ trồng cà phê Arabica, 60 thương lái, 16 công ty chế biến, 15 nhà bán lẻ, 5 công ty xuất khẩu và 8 chuyên gia về cà phê Arabica tại Lâm Đồng. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích biên ngẫu nhiên (SFA), mô hình PEST, mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Porter (1985) và phân tích ma trận SWOT để thực hiện các nội dung nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu nghiên cứu của luận án. Luận án đã đạt được một số kết quả chính như sau: Có 6 tác nhân chính tham gia trong các công đoạn của chuỗi giá trị cà phê ở Lâm Đồng, bao gồm: những nhà cung cấp vật tư đầu vào, nông hộ trồng cà phê, thương lái thu mua cà phê, công ty chế biến, nhà bán lẻ và công ty xuất khẩu. Kết quả phân tích cho thấy, chỉ số tăng giá, sức mạnh thị trường và chỉ số Lerner của nông hộ và của thương lái rất thấp, gần như bằng 0. Điều này chứng tỏ khúc thị trường giữa nông hộ trồng cà phê và người thu mua tại Lâm Đồng rất gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Kết quả phân tích mức độ tập trung thị trường của các công ty chế biến cũng rất thấp (CR4=12,9%). Trong khi đó mức độ tập trung thị trường của các công ty xuất khẩu cà phê Arabica là khá cao (CR4=67,1%). Chuỗi giá trị sản phẩm cà phê Arabica được vận hành thông qua rất nhiều kênh thị trường khác nhau trong đó có 5 kênh chính. Cụ thể, kênh 1 là kênh có thực hiện khâu chế biến và tiêu thụ nội địa, nhưng chỉ chiếm có 3,2% khối lượng cà phê Arabica của toàn chuỗi. Bốn kênh còn lại là kênh xuất khẩu cà phê nhân thô chưa qua chế biến với sự tham gia của nông hộ, thương lái, công ty chế biến và công ty xuất khẩu. Sản phẩm trên 4 kênh này được phân phối cho các nhà rang xay lớn trên thế giới. Tổng GTGT được tạo ra trong kênh có khâu chế biến rất cao, khoảng 254 ngàn/kg, cao gấp 5 lần so với các kênh không có khâu chế biến (54-64 ngàn/kg). Tuy nhiên sản lượng của kênh có khâu chế biến rất thấp, chỉ chiếm 3,2% của toàn chuỗi. Như vậy có thể thấy khi tham gia chuỗi giá trị cà phê toàn cầu, ngành hàng cà phê của Việt Nam nói chung và cà phê Arabica Lâm Đồng nói riêng đang ở khâu đáy của toàn chuỗi - khâu trồng trọt, là khâu tạo ra GTGT thấp nhất. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nông hộ trồng cà phê là tác nhân tạo ra GTGT và lợi nhuận cao nhất (trên 65%) ở hầu hết các kênh phân phối (trừ kênh 1 là kênh rang xay). Tuy nhiên, họ được phân phối lợi nhuận lại rất thấp so với các tác nhân khác trong chuỗi, chiếm chưa tới 2% của toàn chuỗi. Trong khi đó, lợi nhuận của toàn chuỗi được phân phối phần lớn cho các công ty xuất khẩu và công ty chế biến từ 74-96% tùy từng kênh. Các thương lái cũng chỉ chiếm từ 3,5-4,1% và nhà bán lẻ chỉ có 0,5%. The thesis on analyzing the value chain of Arabica coffee in Lam Dong is carried out based on the value chain analysis approach of GTZ (2007) and the expanded SCP analysis framework. The study aims to analyze the market structure, market conduct, and market performance of Arabica coffee in Lam Dong. On that basis, the research analyses the chain's strengths, weaknesses, opportunities, and challenges to propose solutions to upgrade the chain to increase value-added and income for participating in the chain through the SWOT matrix analysis tool. Secondary data were collected from Ministry of Agriculture and Rural Development, Ministry of Industry and Trade, People's Committee of Lam Dong province, Department of Agriculture and Rural Development, Statistical Yearbook of Lam Dong province, and some other provinces. Besides, secondary data were also collected from researches on the agricultural value chain. Primary data were collected from 10 input suppliers, 200 Arabica coffee farmers, 60 traders, 16 processing companies, 15 retailers, and 5 exporters in Lam Dong province. Descriptive statistics method, market power analysis by stochastic frontier analysis (SFA), PEST model, Porter's five forces model (1985), and SWOT matrix were applied. The research has achieved some critical results as follows: Lam Dong province's Arabica coffee value chain has six actors: input suppliers coffee farmers, traders, processors, retailers, and exporters. The analysis results of mark-up, market power, and Lerner index of farmers and traders are negligible, almost zero. These indexes indicate that the coffee market in Lam Dong is close to the perfect competitive market. The analysis results of the market concentration ratio of processing companies are also shallow (CR4=12.9%). Meanwhile, the market concentration ratio of Arabica coffee exporters is relatively high (CR4=67.1%). The Arabica coffee value chain operates through different market channels with five main channels: Channel 1 is the channel for processing and domestic consumption but only accounts for 3.2% of the volume of Arabica coffee in the whole chain. The rest four channels are the export channels of unprocessed, coffee beans with the participation of farmers, traders, processing companies, and exporting companies. Products on these channels are distributed to major roasters around the world. Total value-added created in the processing channel is high, approximately 254 thousand dongs/kg, five times higher than that in the non-processing channel (54-64 thousand/kg). However, the share of the processing channel is small, accounting for only 3.2% of the whole chain. Thus, it can be seen that when participating in the global coffee value chain, Vietnam in general and Arabica Lam Dong, in particular, are at the bottom level, cultivating, creating the lowest added value. Regarding the profit distribution across actors in the Arabica coffee value chain in Lam Dong, coffee farmers, who are always the actors, created the highest value (over 65%) in most distribution channels except channel 1 is the roasting channel). However, the profit rate of farmers per year is shallow, accounting for 2% of the whole chain. Meanwhile, the profit of the whole chain serves most exporters and processors with more than 74-96% of each channel. Traders also have 3.5-4.1%, and retailers have only 0.5%. Almost all coffee farmers are small-scale, the investment cost per year is also meager. For traders, although they are not directly involved in the production or processing stages of coffee, they also need much money to buy coffee from farmers. Retailers also have to invest a lot of rent shop, hire employees, and other costs. Meanwhile, processors and export companies have to invest a lot of capital to build factories and in technology processing. So beneficial distribution among actors in the value chain of Arabica coffee in Lam Dong is relatively reasonable. Finally, four solutions to upgrade the value chain of Arabica coffee in Lam Dong are: (i) Product improvement and innovation solutions; (ii) Solutions to cut down production costs; (iii) Solutions to improve distribution channels; and (iv) Investment and employment solutions.